Tranh dân gian: Gian nan bảo tồn
Đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền của nhiều dòng tranh dân gian, ước vọng hồi sinh và gìn giữ một di sản văn hóa của cha ông để “màu dân tộc” mãi được “sáng bừng trên giấy điệp”... không chỉ là ước nguyện mà còn có cả trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi làng nghề và cả các cơ quan chức năng ở Trung ương và địa phương. Tuy nhiên, để bảo tồn và khôi phục tranh dân gian trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ bề lại là một bài toán khó chưa có lời giải đáp. Bảo tồn thế nào và bằng cách nào vẫn đang là điều còn trăn trở, còn ngổn ngang.
Theo các nguồn tư liệu, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có cách đây gần 500 năm, vào thế kỷ 16. Và cho tới tận năm 1945, vẫn có tới 17 dòng họ còn theo nghề với rất nhiều xưởng làm tranh trong làng. Thế nhưng đến nay cả làng chỉ còn vài ba gia đình là còn làm tranh.
Ông Nguyễn Đăng Chế, một trong số ít nghệ nhân còn làm tranh ở làng Đông Hồ cho biết: Hiện ở làng Đông Hồ không còn mấy ai mặn mà với nghề. Không phải họ bỏ nghề vì không yêu, vì chán mà nghề làm tranh không đủ để nuôi sống họ và gia đình. Nhu cầu mua tranh không nhiều nên không bán được tranh, vì thế không đủ nguồn lực để duy trì nghề.
Tranh dân gian Hàng Trống. |
Với gia đình ông Nguyễn Đăng Chế và một số người khác còn giữ được nghề cho đến ngày nay cũng phải trải qua bao nhiêu khó khăn, lăn lộn tìm nguồn tiêu thụ và làm nhiều cách để tranh dân gian thích ứng với cuộc sống hiện đại. Ông cho rằng: “Thực tế ngày nay các hộ gia đình trong làng chuyển sang làm hàng mã là do nhu cầu tâm linh, bán được hàng thì người dân có thu nhập, họ duy trì được đời sống. Điều ông luôn ao ước hiện nay là làm sao nghề làm tranh dân gian có thể sống khỏe được như nghề làm hàng mã.”
Còn đối với tranh dân gian Kim Hoàng, ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội, một trong 3 dòng tranh dân gian nổi tiếng của miền Bắc cũng có thời kỳ phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915, khi cả làng bị ngập, nhiều ván in tranh vì thế bị nước lũ cuốn trôi. Sau trận lụt đó, nghề làm tranh dần mai một, đến năm 1945 thì cả làng Kim Hoàng không còn ai làm tranh.
Ông Trần Thịnh, một trong số ít người cao tuổi của làng am hiểu về tranh Kim Hoàng cho biết: “Ngày trước người dân trong làng cũng muốn khôi phục lại nhưng số người biết làm tranh thì cứ dần dần mất hết, số người còn biết về dòng tranh cổ này chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, đều đã ở tuổi xưa nay hiếm sức khỏe yếu. Những ván khắc tranh dần mất hết, muốn khôi phục cũng khó. Cho nên, chúng tôi tiếc lắm nhưng vẫn phải chịu”.
Tranh Kim Hoàng được phục chế theo mẫu của Pháp. |
Cái hồn của một di sản văn hoá chính là người thực hành, nắm giữ di sản. Cụ thể với tranh dân gian thì đó là các nghệ nhân, những người trực tiếp làm ra các bức tranh dân gian sống động, mang hồn cốt văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, thực tế nghệ nhân còn làm nghề và tâm huyết với nghề còn rất ít, thậm chí không còn, đây là một khó khăn rất lớn trong việc duy trì sự sống của làng tranh.
Bên cạnh nguyên nhân thiếu vắng nghệ nhân theo nghề, các dòng tranh và làng tranh dân gian truyền thống của nước ta đã và đang chịu những tác động của sự thay đổi trong đời sống hiện nay. PGS-TS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hoá- Nghệ thuật Quốc gia nêu thực tế: Trước kia tranh dân gian là thú chơi ngày Tết, còn bây giờ nhu cầu đấy không còn nhiều như trước kia.
Chính nhu cầu của thị trường dẫn đến các yếu kém của các khâu như nguyên liệu, thiếu vắng nghệ nhân hay việc cải tiến sản phẩm và tất nhiên bao giờ các yếu tố này cũng có sự qua lại với nhau. Nhưng theo ông yếu tố quan trọng nhất làm tranh dân gian ngày một bị lãng quên đó là yếu tố thị trường. Chính yếu tố thị trường đã làm cho những người làm nghề và các làng nghề tranh dân gian họ mất động lực để phát triển.
Tranh dân gian Hàng Trống. |
Theo nhà sưu tập tranh dân gian Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ tư nhân Hà Nội: Hiện nay, những người khắc được bản mộc tranh dân gian và người bồi tranh dân gian ở nước ta không còn nhiều, như tranh làng Sình còn một người và tranh Đông Hồ cũng chỉ có hai thợ là biết khắc.
Đặc biệt, thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, ngôi làng trước kia ông Lương Nhữ Học- ông tổ nghề khắc bản gỗ in đã truyền lại nghề cho dân làng nhưng đến nay người dân cũng hầu hết chuyển nghề, không còn làm nghề này nữa. Ngày xưa, đây là làng nổi tiếng khắc cả tranh hàng Trống, cả ván kinh phật. Vì vậy, việc khôi phục các ván in tranh dân gian cổ, nguyên mẫu phục vụ cho công tác bảo tồn gặp không ít vất vả, gian nan. Đặc biệt, các bản mộc tranh hiện bị thất lạc nhiều nên các mộc bản còn lưu giữ hiện nay vô cùng quý giá.
Bên cạnh đó, sự thay đổi trong việc sử dụng các vật liệu làm giấy như trộn màu trắng vào điệp, quét lên giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh… hay sử dụng màu vẽ công nghiệp trong những năm gần đây cũng tạo nên những biến đổi về chất đối với các loại tranh dân gian truyền thống. Chính vì vậy việc bảo tồn các di sản văn hóa này đã, đang và vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ.
PGS-TS Phan Thanh Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học nghệ thuật Huế cho rằng: Vấn đề này cũng đang xảy ra đối với việc bảo tồn và phát triển tranh dân gian làng Sình. Nếu như trước đây, các hộ làm tranh dùng các rễ cây để làm bút vẽ thì bây giờ lại dùng bút công nghiệp. Một khó khăn trong công tác bảo tồn và phát triển du lịch đối với tranh làng Sình hiện nay là nếu thực hiện theo phương pháp bảo tồn thì phải in tranh trên giấy dó, bút rễ cây mà màu thực vật, như vậy thì tranh không thể bán được vì quá đắt mà nếu muốn dễ bán và có lợi nhuận thì phải in giấy thường, dùng màu và bút công nghiệp. Điều này rất khó làm và rất khó thực hiện một cách hài hòa.
Cũng theo PGS-TS Phan Thanh Bình: Hiện nay, cách bảo tồn, khôi phục các dòng tranh dân gian của nước ta đang trong tình trạng manh mún, chưa có chính sách đồng bộ, dài hơi. Thay đổi lại phương pháp bảo tồn, cách tiếp cận bảo tồn theo hướng đưa vào cuộc sống, với một câu chuyện tiếp nối những giá trị truyền thống nhưng mang một hơi thở mới là cách hiệu quả nhất để tranh dân gian được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống đương đại.
Thực tế cho thấy, để bảo tồn một cách có hiệu quả và để nghệ nhân sống được bằng nghề trong nhịp sống sôi động, hối hả hiện nay quả thật là không dễ khi thị trường bị thu hẹp và nhu cầu thì hạn chế. Vậy làm gì để tranh dân gian có thể sống được trong dòng chảy đương đại hiện nay cũng là nội dung chúng tôi đề cập trong kỳ 3 của loạt phóng sự với nhan đề “Làm gì để tranh dân gian hồi sinh?”./.
0 nhận xét